Dau hieu ba bau thieu chat dinh duong va cach cai thien

Dau hieu ba bau thieu chat dinh duong va cach cai thien


1.000 ngày đầu đời (từ khi trẻ được mang thai đến 2 tuổi và thời điểm tuổi dậy thì) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhấn mạnh là thời điểm vàng phát triển chiều cao và thể chất. Thiếu dinh dưỡng càng sớm nhất là từ giai đoạn bào thai sẽ gây nên hậu quả nghiêm trọng tới sức khỏe và quá trình tăng trưởng của trẻ. Vậy phòng ngừa thiếu hụt dưỡng chất trong thai kỳ ra sao?

1. Hậu quả khi thiếu hụt dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai

Thiếu hụt dưỡng chất trong khoảng thời gian có thai sẽ tác động không nhỏ đến mô não, thần kinh và sẽ không bao giờ phục hồi hoàn chỉnh được. Hậu quả của việc thiếu hụt dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai sẽ phụ thuộc vào mỗi giai đoạn thai kỳ:

Giai đoạn sớm thai kỳ: có khả năng gây nên sảy thai.

Giai đoạn cấu thành những bộ phận của cơ thể: có thể gây dị tật bẩm sinh.

Giai đoạn cuối thai kỳ: kém tăng trưởng bào thai dẫn đến trẻ sinh ra có cân nặng dưới 2500g.

Nếu lượng đạm nạp vào quá ít trong suốt thời kỳ mang thai thì số lượng tế bào của mô thai nhi sẽ suy giảm, trẻ sinh ra sẽ nhẹ cân và chiều dài không đạt mức tối đa theo tiềm năng di truyền cho phép.

Thiếu chất đạm vô cùng nghiêm trọng đối với não bộ bởi vì sẽ gây nên sự chậm phát triển không hồi phục.

Thiếu folate trong các tuần đầu thai kỳ sẽ dẫn đến dị tật ống thần kinh như nứt đốt sống và thiếu một phần não bẩm sinh. Ống thần kinh đóng không hoàn toàn là lý do gây nên bại liệt, não úng thuỷ... Ống thần kinh thường đóng lại vào khoảng ngày 24-28 của thai kỳ, đây là thời điểm đa số phụ nữ chưa nhận biết mình có thai nên chế độ dinh dưỡng chưa được điều chỉnh hợp lý.

Thiếu hụt dưỡng chất trong thời kỳ mang thai không những tác động đến sản phụ mà còn gây dị tật bẩm sinh ở trẻ

Thiếu hụt folate trong thời điểm cuối thai kỳ sẽ dẫn đến thai nhi chậm phát triển và thai phụ có thể bị chứng thiếu máu hồng cầu to và các biến chứng trong thời kỳ mang thai như nhau bong non, xuất huyết.

Thiếu iốt trước và trong thời kỳ mang thai trẻ sinh ra sẽ ngu ngơ, nếu thiếu ít thì có thể làm chậm phát triển năng lực nhận thức & vận động của trẻ.

Hiện tượng thiếu vitamin A ở bà bầu sẽ gây sinh non, thai chậm phát triển và sơ sinh nhẹ cân.

Thiếu hụt sắt ở mẹ có thể làm tăng rủi ro chết chu sinh ở trẻ, sanh non, hoặc con sinh ra nhẹ cân, mẹ có thể bị băng huyết sau sinh, chậm phục hồi sức khỏe, giảm khả năng đề kháng.

Thiếu kẽm ở bà bầu sẽ tác động tới chiều dài tiềm năng của trẻ.

Thiếu hụt vitamin D trong suốt thời kỳ mang thai sẽ gây rối loạn chuyển hoá canxi khiến hạ canxi huyết, co giật do thiếu hụt canxi, giảm sản sinh men răng của trẻ và chứng nhuyễn xương ở mẹ.

Bé sinh ra từ phụ nữ có chế độ dinh dưỡng thiếu vitamin B12 sẽ có rủi ro cao bị chậm tăng trưởng.


Tin liên quan:
Tư thế ngủ nào tốt cho mẹ bầu và thai nhi?
 Những thực phẩm bà bầu cần tránh suốt thai kỳ


2. Nhu cầu dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai

2.1. Năng lượng

Quan điểm bà mẹ mang thai phải ăn gấp đôi là không chính xác vì dung nạp thức ăn quá mức sẽ làm cho bà mẹ tăng cân quá mức cần thiết.

Ở 3 tháng đầu thai kỳ, nhu cầu năng lượng gia tăng không quá nhiều. Chính vì lý do đó, ăn đa dạng và đầy đủ các chất dinh dưỡng vẫn thiết yếu hơn là ăn thật nhiều. Thế nhưng, đối với phụ nữ trước khi mang thai bị suy dinh dưỡng thì sẽ cần tăng năng lượng ăn vào thấp nhất là 150 kcal, tương đương với tăng 1-2 bữa phụ như uống thêm 1 ly sữa, ăn thêm trái cây.

Ở 6 tháng sau thai kỳ, bà mẹ mang thai cần tăng khoảng 300 kcal/ngày, tương đương ăn thêm 1 chén cơm cùng những loại thức ăn, dùng thêm 1-2 ly sữa, hoặc ăn 1-2 bữa phụ.


2.2. Chất đạm

Chất đạm từ chế độ ăn của mẹ sẽ được chuyển đến bào thai để tổng hợp chất đạm của thai. Lượng đạm dung nạp vào của mẹ sẽ tác động đến chiều dài tiềm năng có thể có được của bào thai. Bà mẹ mang thai cần bổ sung thêm lúc chưa có thai khoảng 15g chất đạm hàng ngày (tức là phải cho vào chế độ ăn hàng ngày khoảng 80-100 thịt hoặc cá, 2 cái trứng, hoặc 1 ly sữa và 1 miếng phô mai). Theo đó, thai phụ nên lựa chọn loại thực phẩm dồi dào đạm có giá trị sinh học cao như thịt, cá, trứng, sữa (hoặc những chế phẩm từ sữa), sản phẩm từ đậu nành... Thịt, cá, trứng còn là thức ăn dồi dào chất sắt, kẽm, vitamin A. Sữa còn có dồi dào canxi, photpho, vitamin A, vitamin nhóm B...

Chất đạm có thể tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm


2.3 Canxi

Canxi từ mẹ được chuyển đến thai để hình thành xương và răng. Ở 6 tháng đầu, bà mẹ dự trữ canxi trong xương. Một phụ nữ duy trì dưỡng chất tốt trước mang thai sẽ dự trữ trên 1000g canxi để dùng. Khi hệ xương em bé phát triển làm nhu cầu canxi tăng cao ở 3 tháng cuối, thai nhi sẽ rút canxi từ kho tích trữ của mẹ. Vì vậy, nếu thai phụ không nhận đủ canxi từ thức ăn thì sẽ có rủi ro cao bị hư răng và loãng xương về sau này. Nhu cầu canxi của bà bầu là 1000mg/ngày.

Một số thức ăn giàu canxi bà bầu có thể cho vào chế độ ăn mỗi ngày như: sữa, chế phẩm từ sữa, rau xanh, đậu nành, cá nhỏ ăn luôn xương, tôm tép ăn cả vỏ. 1 ly sữa 200ml bổ sung khoảng 240 mg canxi.


2.4. Sắt

Thai phụ cần lượng sắt rất cao để chuyển đến thai nhi, hình thành bánh nhau, lượng máu của mẹ tăng thêm khi mang thai, và bù đắp cho lượng sắt mất đi khi sinh nở. Tổng lượng sắt cần cho mẹ trong suốt thai kỳ là khoảng 840mg. Trên thực tế, phần lớn các bà mẹ khi mang thai đều không có đủ lượng sắt tích trữ cần thiết cho thai kỳ.

Sắt bên trong thịt (đặc biệt là thịt đỏ như thịt heo, thịt bò), cá, lòng đỏ trứng, rau xanh, đậu đỗ. Sắt từ thực phẩm nguồn gốc động vật sẽ dễ dàng hấp thu hơn sắt từ nguồn thực vật. Thế nhưng, nếu ăn thức ăn giàu vitamin C cùng bữa ăn sẽ làm gia tăng hấp thu chất sắt từ thực vật. Ngược lại, trà, cà phê, ca cao sẽ ức chế hấp thu sắt từ thực vật vì thế cần dùng cách xa bữa ăn.

Tuy bà bầu có thể dung nạp nhiều thức ăn giàu chất sắt nhưng vẫn không thể đáp ứng nhu cầu chất sắt tăng rất cao trong thai kỳ. Chính vì lý do đó , để bảo đảm đủ lượng sắt tích trữ cho mẹ, cung cấp đủ nhu cầu cho em bé và ngăn ngừa thiếu hụt sắt ở mẹ, Viện dinh dưỡng khuyến nghị thai phụ nên uống thêm viên sắt bổ sung với liều 60mg sắt nguyên tố cùng với 0,4mg acid folic mỗi ngày từ khi phát hiện có thai tới ít nhất 1 tháng sau sinh.

Chế độ ăn giàu sắt giúp mẹ bầu không bị thiếu máu

2.5. I-ốt

Bà mẹ cần nhận đủ i-ốt trong thai kỳ để tạo hormone tuyến giáp hỗ trợ phát triển hệ thần kinh trung ương của em bé. Iốt có thể được bổ sung cho cơ thể từ thực phẩm chế biến từ vật nuôi, cây trồng trên đất giàu iốt. Thế nhưng, nước ta là vùng bị thiếu iốt nên vật nuôi, cây trồng cũng đều bị thiếu. Vì thế, để ngăn ngừa thiếu iốt một cách công hiệu thì bà bầu cần sử dụng muối iốt hàng ngày (nêm lạt) trong ăn uống và chế biến thực phẩm.


2.6. Kẽm

Bà mẹ mang thai cần khoảng 15 mg kẽm từ chế độ dinh dưỡng hàng ngày. Thiếu kẽm hay xảy ra ở những bà mẹ có chế độ ăn chủ yếu là ngũ cốc, ít thức ăn nguồn gốc động vật, nhiều chất ức chế hấp thu kẽm (phytate có trong thực phẩm từ thực vật), hoặc bà mẹ mắc bệnh đường tiêu hoá (viêm tá tràng, hỗng hồi tràng, giảm tiết dịch vị) ảnh hưởng đến hấp thu kẽm hoặc đa thai. Vì thế, những bà mẹ này cần được tăng cường kẽm.

Kẽm có nhiều trong thức ăn nguồn gốc động vật, có rất ít trong thức ăn từ thực vật (trừ mầm của các loại hạt).

Thực phẩm giàu kẽm nên được bổ sung vào chế độ ăn uống

2.7. Vitamin A

Chế độ ăn của bà mẹ cần có thức ăn dồi dào tiền sinh tố A (rau xanh đậm, củ quả vàng cam đậm) và vitamin A (thịt, cá, trứng, sữa). Cần vô cùng cẩn trọng khi uống thuốc có chứa vitamin A cho thai phụ vì vitamin A liều cao có thể làm dị tật ở thai nhi. Vitamin A cung cấp từ thực phẩm thường sẽ an toàn hơn và không đến mức gây hại. Tuy nhiên, thai phụ không nên ăn quá nhiều gan do gan có rất nhiều vitamin A.


2.8. Vitamin D

Vitamin D vô cùng cần thiết để tăng hấp thu canxi vào cơ thể. Bà mẹ cần thường xuyên ra ánh nắng mặt trời (buổi sáng sớm hoặc chiều muộn) để làn da được tiếp xúc ánh nắng hỗ trợ chuyển tiền vitamin D dưới da thành vitamin D. Đối với những bà mẹ không tiếp xúc ánh nắng trong suốt thai kỳ thì cần được cung cấp vitamin D. Thế nhưng, không nên sử dụng liều cao vitamin D trong suốt thai kỳ.

Vitamin D rất cần thiết để tăng hấp thu canxi vào cơ thể

2.9. Folate và vitamin B12

Folate cần thiết để hình thành ống thần kinh của thai nhi trong những tuần đầu thai kỳ, giai đoạn sau folate cần cho quá trình phân bào, phát triển và tạo hồng cầu. Nhu cầu folate trong suốt thời kỳ mang thai là 400μg/ngày. Cung cấp đủ folate đặc biệt quan trọng đối với bà bầu nhiều lần, thiếu máu mãn tính hoặc dùng thuốc chống co giật.

Điều khác biệt so với các dưỡng chất khác là hiệu quả hấp thu folate suy giảm và bài tiết lại gia tăng trong thai kỳ. Đây là yếu tố quan trọng khiến cho thiếu hụt folate ở thời kỳ mang thai trở nên là vấn đề quan trọng đáng chú ý.

Có thể bổ sung folate trong khẩu phần bằng cách: chọn ăn thực phẩm giàu folate (mầm lúa mì, gan, thận, đậu đỗ, các loại hạt, rau xanh, hoa quả nhất là cam, dâu tây, lê, dưa hấu), ăn thực phẩm bổ sung folate, hoặc tăng cường acid folic ở dạng thuốc. Tuy nhiên, nếu chỉ ăn thực phẩm giàu folate sẽ rất khó đạt được nhu cầu. Do đó, ngoài chế độ ăn thực phẩm có nhiều folate thì bà mẹ mang thai cần được cung cấp khoảng 0,4mg acid folic mỗi ngày bằng thực phẩm được bổ sung acid folic hoặc thuốc bổ có acid folic.

Vitamin B12 cũng cần thiết trong quá trình phân bào và hình thành hồng cầu. Với những thai phụ ăn chay trường rất cần được cung cấp vitamin B12, do đây là một loại vitamin chỉ có ở thức ăn nguồn gốc động vật.


2.10. Nước

Bà bầu cần uống ít nhất khoảng khoảng 2 lít nước hàng ngày để đủ nước cho tiêu hoá, hấp thu, chuyển hóa những dưỡng chất, đào thải các sản phẩm chuyển hoá không cần thiết cho cơ thể, và cũng để tránh táo bón. Bên cạnh nước chín, bà mẹ mang thai nên chọn những loại thức uống cung cấp dưỡng chất cần cho cơ thể để đạt nhu cầu khuyến nghị (nước trái cây tươi, sữa...).

Mẹ bầu đừng quên bổ sung nước mỗi ngày

2.11. Thuốc bổ

Các bà mẹ mang thai có chế độ ăn không đủ nhu cầu dưỡng chất (như kém dung nạp lactose, ăn chay, ăn kiêng, hoặc đa thai) thì cần được bổ sung thuốc bổ đa sinh tố hay khoáng chất để làm giảm giảm thiểu nguy cơ khiếm khuyết tăng trưởng trí não, cải thiện chức năng miễn dịch.


Xem thêm:
Thời điểm uống sữa bầu thích hợp nhất
Nguyên nhân khiến bà bầu mất ngủ và cách xử lý


3. Chế độ ăn dành cho bà bầu được khuyến nghị

Để đảm bảo sức khỏe của mẹ cũng như hỗ trợ thai nhi phát triển khỏe mạnh thì phụ nữ mang thai cần có chế độ dinh dưỡng như sau:

Ăn nhiều loại thức ăn.

Nên ăn nhiều bữa để đạt nhu cầu dinh dưỡng.

Để đạt nhu cầu năng lượng, mỗi bữa nên ăn thêm 1 chén cơm (cùng với thức ăn) so với lúc chưa có thai.

Nhóm bột đường: gạo, nếp, mì, khoai... Nên lựa chọn gạo tốt, không xát kỹ vì sẽ mất vitamin B1. Các loại khoai củ có ít chất đạm do đó chỉ ăn thêm chứ không ăn thay bữa chính.

Thức ăn giàu đạm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa và các loại đậu, cụ thể thịt cá: 120-150g mỗi ngày. Một tuần nên ăn 2-4 lần thịt, khoảng 3 lần cá, hạn chế ăn gan. Trứng: 2-3 quả trứng mỗi tuần. Sữa: 2-4 ly mỗi ngày (ly 200ml), có thể thay bằng phô mai, yaourt. Không nên sử dụng nhiều sữa, yaourt quá ngọt do lượng đường quá nhiều sẽ không tốt.

Chất béo: nên dùng dầu thực vật và chỉ ăn vừa phải.

Trái cây chứa nhiều vitamin có lợi cho mẹ bầu

Nên dùng nhiều rau và hoa quả tươi hàng ngày, nhất là rau lá xanh đậm và củ quả vàng cam đậm. Khoảng 300g rau (tương đương 3 chén rau chín) và 2-3 phần trái cây hàng ngày (1 phần trái cây tương đương 1 trái chuối, 1 trái cam cỡ vừa, 1 miếng đu đủ...)

Chất ngọt cũng chỉ ăn vừa đủ. Ăn nhiều thức ăn ngọt sẽ khiến bà bầu tăng cân nhiều tuy nhiên vẫn có khả năng bị thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết như chất đạm và các vi chất.

Dùng muối iốt trong ăn uống và chế biến thực phẩm (nêm lạt).

Uống nhiều nước (1,5- 2 lít nước mỗi ngày).

Giảm thiểu nhiều nhất thức uống có cồn (rượu, bia).

Caffeine qua nhau có thể làm tăng nhịp tim và nhịp thở của thai. Caffeine có trong cà phê, các loại trà, nước ngọt có gaz, nước tăng lực, cacao... Bà mẹ mang thai không nên uống quá 2 ly cà phê mỗi ngày.

Không hút thuốc lá (kể cả hít khói thuốc lá từ môi trường xung quanh): nicotine từ khói thuốc lá sẽ vào hệ tuần hoàn của mẹ, qua nhau thai làm ảnh hưởng đến cung cấp oxy cho em bé.

4. Những trường hợp đặc biệt

4.1 Nôn ói

Thường xảy ra vào các tháng đầu thai kỳ. Nếu nặng sẽ làm thiếu chất đạm và năng lượng, chất khoáng, vitamin và điện giải. Khi đó cần chia nhỏ bữa ăn, chế độ ăn nên ít béo, ít gia vị và nhiều chất bột đường. Không nên uống nhiều cùng với bữa ăn. Nếu tình trạng này kéo dài thì cần nhập viện để được truyền dịch để tránh mất nước và điện giải.

Mẹ bầu có thể phải truyền nước nếu tình trạng nôn ói xảy ra thường xuyên

4.2. Nóng rát ngực

Thường ở giai đoạn sau của thai kỳ do tử cung to gây áp lực lên dạ dày cùng với sự nới lỏng cơ vòng thực quản nên dịch tiêu hoá dễ trào lên thực quản gây nóng rát. Triệu chứng này sẽ giảm bằng cách ăn ít mỗi bữa, gia tăng số bữa ăn và không nên nằm ngay sau khi ăn. Tránh thức ăn béo, cà phê và nước uống có gas.


4.3. Táo bón và bệnh trĩ

Thường trong giai đoạn cuối thai kỳ vì giảm nhu động ruột, ít hoạt động thể lực và vì tử cung to đè lên đại tràng. Những chứng này có khả năng giảm khi bà bầu ăn nhiều thực phẩm dồi dào chất xơ như ngũ cốc không xát kỹ, rau và trái cây, uống nhiều nước. Nên uống 1 ly nước khi thức dậy vào buổi sáng.


4.4 Ngộ độc thực phẩm

Đôi khi tình trạng ngộ độc thực phẩm xảy ra ảnh hưởng nặng nề đến thai nhi. Bà mẹ có thể ngăn ngừa bằng cách chú ý vệ sinh ăn uống, rửa kỹ rau quả, gọt vỏ trước khi ăn, rửa tay kỹ, sử dụng nước chín, không ăn thức ăn chưa nấu chín (thịt tái, gỏi cá sống, trứng lòng đào hoặc trứng sống, hải sản nướng...), tránh xa vật nuôi như chó mèo vì có thể nhiễm giun sán từ các thú cưng này.

Nên ăn chín uống sôi để tránh ngộ độc thực phẩm

4.5 Đái tháo đường thai kỳ

Đái tháo đường thai kỳ phần lớn xuất hiện sau 20 tuần và thường tự khỏi sau khi sinh. Thai phụ cần ăn đủ nhu cầu, theo dõi đường huyết thường xuyên, giữ mức đường trong máu ổn định, ngăn ngừa tình trạng cạn kiệt nguồn dinh dưỡng tích trữ. Thành phần các chất đạm : béo : chất bột đường trong chế độ ăn nên cân bằng ở mức 15 : 30 : 55% năng lượng.


4.6. Tăng huyết áp thai kỳ

Tăng huyết áp thai kỳ là một hội chứng bao gồm tăng huyết áp, đạm niệu, và phù nề. Xảy ra khoảng 7-8% thai kỳ và thường ở 3 tháng cuối thai kỳ. Tình trạng này làm giảm lượng máu đến tử cung gây ra thai bị kém nuôi dưỡng. Thai phụ cần được theo dõi sức khỏe thường xuyên để đảm bảo an toàn cho mẹ và em bé.


Nguồn tham khảo:

https://www.friso.com.vn/kinh-nghiem-hay/top-3-hien-tuong-chung-to-me-bau-dang-bi-thieu-dinh-duong-trong-thai-ky


Report Page